Năm Châu

Nghệ sĩ Nhân dân
Nguyễn Thành Châu
Biệt danhBậc thầy cải lương
Kỳ nhân sông Tiền
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Nguyễn Thành Châu
Ngày sinh
(1906-01-09)9 tháng 1, 1906
Nơi sinh
Điều Hòa, Mỹ Tho, Đông Dương thuộc Pháp[1]
Mất
Ngày mất
1977 (70–71 tuổi)
Nơi mất
Thành phố Hồ Chí Minh
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Diễn viên sân khấu
  • soạn giả
  • đạo diễn chuyển âm
  • đạo diễn lồng tiếng
  • đạo diễn điện ảnh
Gia đình
Hôn nhân
Sáu Trâm, Tư Sạng,
Kim Cúc
(cưới 1948⁠–⁠1977)
[2]
Con cái
Nguyễn Thị Thanh Hương
Nguyễn Hồng Dung
Đào tạoTrường Trung học La San Taberd
Lĩnh vựcCải lương
Danh hiệuNghệ sĩ Nhân dân (1988)
Sự nghiệp điện ảnh
Thể loạiPhim điện ảnh
Tác phẩmNgười đẹp Bình Dương
Sự nghiệp sân khấu
Năm hoạt động1922–1977
Đào tạoTrường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn (1962)
Tác phẩm
[sửa trên Wikidata]x • t • s

Năm Châu (1906–1977), tên thật là Nguyễn Thành Châu. Ông là nghệ sĩ cải lương Việt Nam nhiều ảnh hưởng.[3] Ông vừa là người trình diễn, vừa là soạn giả cải lương. Với tư cách một soạn giả cải lương hàng đầu ở thời của mình, ông đã sáng tác khoảng 50 vở cải lương dài và nhiều vở ngắn, trong đó rất nhiều vở có giá trị nghệ thuật cao.[2]

Tiểu sử

Ông tên thật là Nguyễn Thành Châu, sinh năm 1906, tại làng Mỹ Tịnh An, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Ông là một nghệ sĩ (NS) bậc thầy của nền sân khấu cải lương Nam bộ, là diễn viên tài danh, nhà viết kịch uy tín, nhà đạo diễn nổi tiếng, người có công cách tân sân khấu nước nhà.[4]

Theo nghề

Lúc đang theo học tại Trường La San Taberd (nay không còn tồn tại), ông quyết định tự lập, theo nghiệp sân khấu, gia nhập gánh hát Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho (năm 1922).

Sau đó, ông cộng tác với gánh hát Huỳnh Kỳ, sáng tác các tuồng: Tội của ai, Ngọn cờ hiệp sĩ (1927), Tiếng nói trái tim (1928), Bằng hữu binh nhung (phóng tác tiểu thuyết Les trois mousquetaires - "Ba chàng lính ngự lâm" của Alexandre Dumas cha), Hồn chinh phụ (1930), Tố Hoa Nương, Đêm không ngày,... gây tiếng vang lớn. Ông sớm nhận biết khán giả không thích tuồng quá nhiều Hán tự, cách ca diễn ủy mị, rề rà, nội dung không phản ánh hiện thực cuộc sống, do vậy ông chủ trương cải cách.

Thời kỳ rực rỡ nhất của ông chính là thành lập Đoàn hát Việt Kịch Năm Châu (1952–1955). Với vở Tây Thi gái nước Việt do ông làm đạo diễn, kiêm diễn 2 vai Ngô Phù Sai, Phạm Lãi gây tiếng vang lớn về nghệ thuật ca diễn cải lương cải tiến, cuốn hút khán giả thời đó.

Ban đầu đoàn cũng gặp nhiều khó khăn, vì khán giả chưa quen với cách làm mới, họ chê rằng: "Coi hát mà cứ nghe thoại kịch, lâu lâu mới có bài ca". Nhưng ông vẫn kiên trì đường lối cải cách. Dù đời sống vô cùng khó khăn, nhà nghèo lại đông con, ông còn lo nồi cơm chung cho tập thể. NSND Huỳnh Nga bái phục kể: "Ông vay nợ mua một xưởng cưa bên cầu Bông (thuộc quận Bình Thạnh ngày nay - PV) lập hậu cứ cho đoàn. Giai đoạn này, ông bỏ tiền mời thầy về dạy chữ quốc ngữ cho tất cả thành viên trong đoàn, ai chưa biết đọc, biết viết đều phải học để "xóa dốt chữ thì mới làm nghề thăng hoa, tiến bộ".

Ông từng cho rằng ông học được nhiều kinh nghiệm quý trong đời là nhờ thầy Năm Tú. Ông đã đưa vào sáng tác văn hóa đối thoại dễ hiểu được phóng tác theo tiểu thuyết Anh, Pháp nhằm phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương Tây, áp dụng tiến bộ nghệ thuật và kỹ thuật khoa học để làm giàu cho cải lương.

Từ nền tảng này, kịch bản cải lương đã bỏ dần những câu văn biền ngẫu, khiến nghệ sĩ lệ thuộc động tác gò bó, trịnh trọng. Cách đối thoại theo thể văn xuôi của ông đã bắt đầu đưa cuộc sống đương đại lên sàn diễn.

Ông tung ra loạt tuồng phóng tác theo các tiểu thuyết nổi tiếng hoặc kịch kinh điển của văn học Pháp, như: Giá trị và danh dự (phóng tác Le Cid của Pierre Corneille), Túy hoa vương nữ (Marie Tudor của Victor Hugo), Áo người quân tử (L’homme en habit), Miếng thịt người (Le marchand de Venise), Gió ngược chiều (Ruy Blas),...

Ở lĩnh vực điện ảnh, ông thực hiện các phim chuyển thể từ các vở cải lương và ông là người đầu tiên thực hiện lĩnh vực chuyển âm, lồng tiếng cho các phim nước ngoài (1950–1960) tại Sài Gòn.

Đĩa Beka thu bài Guitare d’Amour hát chung với Ái Liên, dàn nhạc Orchestre Francois Nở

Giáo sư kịch nghệ đầu tiên

Đầu năm 1960, sân khấu cải lương có sự chuyển biến lớn, sự xuất hiện của những giọng ca vàng khiến thế hệ của ông phải nhường bước cho lớp trẻ ca vọng cổ xuất sắc được khán giả ưa chuộng như: Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Út Hiền, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh, Thanh Sang, Tấn Tài, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Nga,... đã chiếm lĩnh sân khấu cải lương và các hãng đĩa.

Từ năm 1962, ông được mời làm giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh), là giáo sư kịch nghệ khóa đầu tiên của trường này. Với tinh thần dạy nghề hết lòng vì nguồn nhân lực cho sân khấu, ông là bậc thầy trong việc đúc kết những kinh nghiệm giảng dạy nghệ thuật cho thế hệ nhà giáo của bộ môn này.

Gọi ông là bậc kỳ tài, vì ông nhanh chóng tiếp thu, dung nạp cái mới vào trong cách ca diễn, sáng tác và đạt trình độ tư duy cao, đặt viên gạch đầu tiên cho nghề thầy tuồng.

Sau năm 1975, vợ ông - nghệ sĩ Kim Cúc - được mời dạy khóa đào tạo diễn viên Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Bà đã dùng giáo án của chồng để tiếp tục sự nghiệp mà ông đã dày công vun đắp.[5]

Ông mất năm 1977.

Tác phẩm

  • Anh hùng náo Tam môn giai
  • Duyên chị tình em
  • Đoá hoa rừng
  • Nợ dâu
  • Nước biển mưa nguồn
  • Ngọn cờ đầu
  • Ngao sò ốc hến
  • Sân khấu về khuya
  • Phũ phàng
  • Tư sinh tử
  • Thái tử Hàm Lệ
  • Tuý Hoa vương nữ
  • Tây Thi gái nước Việt
  • Vợ và tình
  • Miếng thịt người

Vinh danh

Với nhiều đóng góp cho sân khấu cải lương, ông đã được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt 1 (1984).

Tên ông được đặt cho một tuyến đường ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh (đường Năm Châu).[6]

Tham khảo

  1. ^ Lê, Văn Nghĩa (ngày 2 tháng 12 năm 2018). “Trăm năm sân khấu cải lương - Tứ quý của cải lương Nam bộ: Trang, Châu, Chơi, Nở”. Sài Gòn Giải Phóng. Đảng Cộng sản Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2018.
  2. ^ a b “Thầy Năm Châu”. Tuổi Trẻ Online. 9 tháng 3 năm 2014. Truy cập 28 tháng 2 năm 2015.
  3. ^ “Nghệ sĩ Năm Châu: nguồn sáng tạo vô tận cho cải lương và điện ảnh Việt Nam”. Đài Á Châu Tự do. Truy cập 28 tháng 2 năm 2015.
  4. ^ “Báo Ấp Bắc điện tử”. baoapbac.vn. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2024.
  5. ^ NLD.COM.VN. “Tự hào "viên ngọc" cải lương 100 tuổi: Năm Châu - Soạn giả canh tân kỳ tài”. Báo Người Lao Động Online. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ ONLINE, TUOI TRE (24 tháng 6 năm 2023). “Đề xuất đặt tên đường nghệ sĩ Phùng Há, Bảy Nam, Út Trà Ôn...”. TUOI TRE ONLINE. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2024.
Hình tượng sơ khai Bài viết tiểu sử liên quan đến nhân vật Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s