Shōjo manga

Manga dành cho độc giả nữ tuổi teenBản mẫu:SHORTDESC:Manga dành cho độc giả nữ tuổi teen
Kệ chứa các tập truyện của shōjo manga thuộc ấn hiệu Margaret Comics tại một hiệu sách ở Tokyo năm 2004.

Shōjo manga (少女漫画 (Thiếu nữ Mạn hoạ), Shōjo manga? n.đ.'truyện tranh dành cho thiếu nữ') là một thể loại manga dành cho đối tượng độc giả là nữ ở độ tuổi vị thành niên và phụ nữ trẻ. Cùng với shōnen manga (dành cho nam ở độ tuổi vị thành niên), seinen manga (dành cho nam ở độ tuổi vị thành niên và nam trưởng thành) và josei manga (dành cho phụ nữ trưởng thành), shōjo manga là một trong những thể loại chính của manga. Shōjo manga theo truyền thống được xuất bản trên tạp chí manga chuyên biệt, thường tập trung vào một nhóm tuổi độc giả hoặc thể loại tường thuật cụ thể.

Shōjo manga bắt nguồn từ văn hóa nữ sinh Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20 với xuất phát điểm chủ yếu là shōjo shōsetsu (tiểu thuyết văn xuôi dành cho thiếu nữ) và jojōga (tranh trữ tình). Shōjo manga đầu tiên được xuất bản trên tạp chí tổng hợp dành cho thanh thiếu niên vào đầu những năm 1900 và bắt đầu giai đoạn phát triển sáng tạo từ những năm 1950 sau khi bắt đầu định hình thành một thể loại manga riêng biệt. Mặc dù thể loại này ban đầu do các mangaka nam thống trị nhưng sự xuất hiện và bùng nổ về số lượng của các mangaka nữ bắt đầu từ những năm 1960 – 1970 và cuối cùng đã dẫn đến sự đổi mới đáng kể trong phong cách sáng tạo và định hướng phát triển cốt truyện. Kể từ những năm 1980, thể loại này đã phát triển về mặt phong cách đồng thời tiểu thể loạih mở rộng thành những tiểu thể loại khác nhau.

Tóm lại, shōjo manga không đề cập đến phong cách hoặc một thể loại cụ thể mà là chỉ về tệp đối tượng người xem mục tiêu. Mặc dù một số quy ước thẩm mỹ, hình ảnh và tường thuật nhất định thường được cho là gắn liền với shōjo manga, nhưng những quy ước này đã thay đổi và phát triển theo thời gian và không có quy ước nào hoàn toàn chỉ dành cho shōjo manga. Tuy nhiên, một số khái niệm và chủ đề đã trở nên gắn liền với shōjo manga, cả về hình ảnh (bố cục khung hình không cứng nhắc, đôi mắt được trau chuốt) và phong cách tường thuật (tập trung vào mối quan hệ và cảm xúc của con người; các nhân vật thách thức vai trò, khuôn mẫu truyền thống, khuôn mẫu về giới tính và tình dục; miêu tả chủ đề về siêu nhiên và hiện tượng huyền bí).

Thuật ngữ

Shōjo

Diễn viên điện ảnh Hideko Takamine, thủ vai một shōjo điển hình mặc đồng phục thủy thủ (sailor fuku) trong bộ phim năm 1939 Hana Tsumi Nikki (ja).

Trong tiếng Nhật, từ shōjo (少女, ?) được dịch theo nghĩa đen là "con gái". Nhưng trong cách sử dụng tiếng Nhật phổ thông trong đời sống hàng ngày, người Nhật hiếm khi sử dụng từ shōjo mà thay vào đó, họ thường sử dụng từ "con gái" là onna no ko (女の子, onna no ko?).[1] Thuật ngữ shōjo thường được dùng để ám chỉ một nhóm xã hội xuất hiện trong thời kỳ Minh Trị (1868 – 1912) ý chỉ trẻ em gái và phụ nữ trẻ trong độ tuổi từ thời thơ ấu cho tới khi những người này kết hôn. Nhìn chung, thuật ngữ này đề cập đến thiếu nữ đang trong độ tuổi đi học, những người gắn liền với hình ảnh "ngây thơ, trong sáng và dễ thương"; điều này trái ngược vớimodan gāru - họ gắn liền với hình ảnh độc lập và có phần gợi cảm hơn.[2] Thuật ngữ shōjo vẫn tiếp tục gắn liền với hình ảnh trẻ trung và ngây thơ sau thời kỳ Minh Trị nhưng mang tính chất của chủ nghĩa tiêu dùng mạnh mẽ. Bắt đầu từ những năm 1980 khi shōjo đã phát triển và trở thành một danh mục tiếp thị riêng biệt dành cho các cô gái. Gyaru cũng thay thế modan gāru trở thành hình mẫu phụ nữ độc lập trong giai đoạn này.[3][4][5]

Shōjo manga

Xét cho cùng, shōjo manga không đề cập đến một phong cách hoặc thể loại cụ thể mà dùng để ám chỉ tới tệp đối tượng mục tiêu.[6] Thị trường manga Nhật Bản được phân theo đối tượng độc giả với thể loại chính chia theo giới tính (Ví dụ như việc: shōjo dành cho nữ, shōnen dành cho nam) hay phân chia theo độ tuổi (josei dành cho phụ nữ, seinen dành cho nam). Do đó, shōjo manga thường được định nghĩa là manga tiêu thụ trên thị trường cho đối tượng độc giả là nữ ở độ tuổi vị thành niên và phụ nữ trẻ,[7] mặc dù một bộ phận nam giới[8] và phụ nữ lớn tuổi cũng ưa chuộng shōjo manga.[9]

Shōjo manga theo truyền thống được xuất bản trên tạp chí manga chuyên biệt dành cho độc giả shōjo - một đối tượng độc giả xuất hiện lần đầu vào đầu thế kỷ 20 và ngày càng phát triển cũng như đa dạng hơn theo thời gian.[10] Mặc dù phong cách và màu sắc của các câu chuyện đăng trên những tạp chí này thay đổi theo từng ấn phẩm và thời kỳ, nhưng một đặc điểm bất biến của shōjo manga là tập trung vào mối quan hệ giữa người với người và những cảm xúc đi kèm.[11] Một số nhà phê bình, chẳng hạn như người phụ trách Bảo tàng Manga Quốc tế Kyoto Kayoko Kuramochi và học giả Masuko Honda (ja) đã nhấn mạnh một số yếu tố nhất định khi những người này cố gắng định nghĩa về shōjo manga: việc sử dụng hoa, ruy băng, váy xòe bồng bềnh, những cô gái với đôi mắt to và long lanh hay những từ ngữ vắt ngang qua trang giấy, thứ mà Masuko Honda đã mô tả bằng cách sử dụng từ tượng thanh hirahira. Định nghĩa này tính cả những tác phẩm tồn tại bên ngoài ranh giới của việc xuất bản tạp chí shōjo truyền thống nhưng vẫn được xem là shōjo, chẳng hạn như tác phẩm được đăng tải và xuất bản trên internet.[12]

Lịch sử

Trước năm 1945: Bối cảnh và nguồn gốc

Nguồn gốc của văn hóa shōjo

Bìa số đầu tiên của Shōjo-kai, xuất bản năm 1902.

Cùng với sự bùng nổ của ngành xuất bản Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị, các tạp chí mới hướng đến đối tượng độc giả tuổi vị thành niên cũng bắt đầu xuất hiện, gọi là shōnen.[13] Mặc dù những tạp chí này trên danh nghĩa là dành cho cả hai đối tượng là nam và nữ nhưng trên thực tế, nội dung biên tập của những tạp chí này chủ yếu đề cập đến chủ đề mà nam giới quan tâm.[14] Trước nhu cầu ngày càng tăng đối với tạp chí dành cho nữ, tạp chí shōjo bắt đầu được xuất bản còn tạp chí shōnen dần dần chuyển sang chỉ tập trung vào độc giả nam.[14] Tạp chí shōjo đầu tiên là Shōjo-kai, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1902. Tiếp theo đó là Shōjo Sekai được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1906 và sau đó là Shōjo no Tomo vào năm 1908, Shōjo Gahō vào năm 1912 và Shōjo Club vào năm 1923.[14] Các tạp chí này chủ yếu tập trung vào shōjo shōsetsu (tiểu thuyết nữ sinh, một thuật ngữ dành cho tiểu thuyết và thơ minh họa dành cho đối tượng là nữ đang trong độ tuổi đi học) và chỉ phụ thuộc vào manga.[15]

Tuy nhiên, shōjo shōsetsu vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc gây dựng nên văn hóa shōjo và là bước đầu trong việc đặt nền móng cho những chủ đề chính trong shōjo manga sau này, thông qua việc tập trung vào những câu chuyện về tình yêu và tình bạn.[16] Một trong những tác giả quan trọng của thời kì này là Yoshiya Nobuko, một nhân vật chính trong thể loại Class S với những tiểu thuyết như Hana Monogatari xoay quanh tình bạn lãng mạn giữa các cô gái và phụ nữ.[17][18] Những quy ước hình ảnh của shōjo manga cũng chịu tác động và ảnh hưởng nặng nề bởi những hình minh họa được xuất bản trên các tạp chí này, với tác phẩm của các mangaka minh họa Takehisa Yumeji, Nakahara Jun'ichi và Takabatake Kashō. Đặc trưng của những bức hình minh họa này là đặc tả phụ nữ có thân hình mảnh mai, trang phục hợp thời và đôi mắt to.[16][19]

Shōjo manga đầu tiên

Shōjo manga đầu tiên có dạng những câu chuyện ngắn, hài hước với bối cảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày (chẳng hạn như trường học hay khu phố xung quanh)[20] và thường có nhân vật chính là những cô gái tomboy.[21][22] Những tác phẩm này bắt đầu phát triển vào những năm 1930 nhờ ảnh hưởng của các mangaka như Tagawa Suihō hay Kurakane Shosuke. Đồng thời, trong giai đoạn này cũng chứng kiến một số nữ shōjo mangaka, chẳng hạn như Hasegawa Machiko và Ueda Toshiko mặc dù về số lượng thì số lượng những mangaka nữ ít hơn đáng kể so với các mangaka nam.[21][22]

Một trong những mangaka có ảnh hưởng lớn nhất của thời kì này là Matsumoto Katsuji, một họa sĩ trữ tình chịu ảnh hưởng của văn hóa modan gāru và nghệ thuật Hoa Kỳ. Do cảm thấy khó khăn trong việc đặc tả những hình tượng shōjo ngây thơ điển hình trong tác phẩm minh họa của mình,[20] ông đã chuyển sang vẽ manga vào những năm 1920 để có thể tự do thể hiện hình ảnh modan gāru và các cô gái tomboy. [23] Phong cách của ông có lẽ chịu ảnh hưởng của những họa sĩ truyện tranh Hoa Kỳ như George McManus và Ethel Hays cũng như của điện ảnh Mỹ vào thời điểm đó đã dẫn tới những đổi mới vừa tinh tế, vừa tiên phong trong manga shōjo. Chẳng hạn như Poku-chan (1930) lấy cảm hứng từ phong cách Art Deco, bộ phim điện ảnh Nazo no Kurōbā (1934) và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Kurukuru Kurumi-chan (1938).[24][25]

Với sự bùng nổ của Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai vào năm 1937, những vấn đề như kiểm duyệt và hạn chế về định lượng giấy đã phần nào cản trở sự phát triển của các tạp chí. Điều này khiến nhiều tạp chí phải đóng cửa hoặc buộc phải sáp nhập để tồn tại. Với tạp chí tiếp tục được xuất bản thì mỗi ấn phẩm chỉ còn lại một vài trang văn bản đen trắng với rất ít hoặc không có bất cứ hình minh họa nào.[26] Vào thời điểm năm 1945, chỉ còn 41 tạp chí xuất bản (trong đó có hai tạp chí shōjoShōjo ClubShōjo no Tomo).[26][27]

  • Manga bốn ô tranh từ số ra tháng 11 năm 1910 của Shōjo (không rõ tác giả). Chú ý đến henohenomoheji ở ô cuối cùng.
    Manga bốn ô tranh từ số ra tháng 11 năm 1910 của Shōjo (không rõ tác giả).
    Chú ý đến henohenomoheji ở ô cuối cùng.
  • Chương thứ ba của Chuyện tình Mikeko (ミケ子ロマンス) của Ogawa Jihei, trên số ra tháng 7 năm 1920 của Shōjo Gahō.
    Chương thứ ba của Chuyện tình Mikeko (ミケ子ロマンス) của Ogawa Jihei, trên số ra tháng 7 năm 1920 của Shōjo Gahō.

1945–1970: Sự phát triển sau chiến tranh

Thập niên 1950: Trở thành một thể loại chính thức

Một đại sứ của thành phố Takarazuka hóa trang thành nhân vật chính trong Ribon no Kishi vào năm 2012.

Cùng với việc chiến tranh kết thúc, Nhật Bản bước vào giai đoạn sản xuất nghệ thuật quy mô lớn trong nhiều lĩnh vực khác nhau như điện ảnh, phát thanh và xuất bản. Tiểu thuyết hư cấu dần trở nên phổ biến mạnh mẽ với số lượng ấn bản đã tăng từ 41 (vào năm 1945) lên 400 (vào năm 1952); số lượng công ty xuất bản cũng tăng từ 300 lên khoảng 2000 trong cùng thời kỳ. Mặc dù không phải mọi tạp chí và công ty này đều xuất bản văn học thiếu nhi, các ấn phẩm dành cho trẻ em chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tỉ suất đầu ra xuất bản.[26] Cùng thời điểm đó, kashi-hon (cửa hàng cho thuê sách) cũng dần bùng nổ về số lượng và trở nên phổ biến. Những cửa hàng này cho thuê sách với mức phí thấp từ giao động từ 5 đến 10 yên (tương đương với chỉ bằng một nửa giá vé tàu điện ngầm vào thời điểm đó).[28][29] Điều này có tác dụng mở rộng khả năng tiếp cận sách cho công chúng nói chung và thúc đẩy thêm việc xuất bản truyện tranh manga nói riêng.[30]

Những shōjo mangaka từng hoạt động trước chiến tranh đã quay trở lại với lĩnh vực này bao gồm Kurakane Shosuke với Hime Anmitsu (1949 – 1955)[21], Ueda Toshiko và Fuichin-san (1957 – 1962)[31]. Còn với, Matsumoto Katsuji, ông tiếp tục cho xuất bản Kurukuru Kurumi-chan.[32] Trong giai đoạn này, Matsumoto cũng phát triển phong cách nghệ thuật của mình thành một phong cách bắt đầu giống với phong cách kawaii (dễ thương) sẽ xuất hiện trong vài thập kỷ sau đó.[32] Với những mangaka mới, chẳng hạn như Tezuka Osamu và các mangaka khác liên quan đến Tokiwa-sō đã sáng tác những bộ truyện có tình hồi hộp cao và chủ đề nghiêm túc dành cho thiếu nhi bằng cách sử dụng một thể thức mới đã trở nên phổ biến trong manga shōnen: "manga theo cốt truyện". Thể thức này miêu tả các câu chuyện nhiều chương với tính liên tục thay vì một chuỗi hình ảnh tĩnh độc lập.[21][32] Ribon no Kishi (1953 – 1956) của Osamu Tezuka được cho là đã khởi sướng loại hình này cùng với phong cách sáng tạo và năng động.[33][34]

Trong cùng thời gian, shōjo trên thị trường kashi-hon phát triển phong cách riêng biệt nhờ ảnh hưởng của jojōga (tranh trữ tình). Những mangaka jojōga như Tani Yukiko và Takahashi Macoto đã vẽ bìa minh họa cho các tuyển tập shōjo manga NijiHana trước khi chuyển sang vẽ truyện tranh manga.[35] Thay vì đi theo hướng rời xa dần khỏi chuẩn mực của tranh trữ tình như Matsumoto, Tani và Takahashi lại đưa chúng vào manga của mình với những tác phẩm gây ấn tượng bởi cảm giác mạnh mẽ về bầu không khí và việc tập trung vào nội tâm cảm xúc của nhân vật chính thay vì tập trung vào hành động.[36][37] Bộ truyện tranh Arashi o Koete (1958) của Takahashi đã đạt thành công vang dội ngay khi ra mắt và nó đánh dấu sự khởi đầu của phong cách chịu ảnh hưởng của jojōga này, làm lu mờ phong cách năng động vốn có của Tezuka để trở thành phong cách minh họa thống trị của manga shōjo.[33][34] Không phải tất cả shōjo kashi-hon đều tuân theo phong cách trữ tình này: một trong những tuyển tập shōjo kashi-hon nổi tiếng nhất là Kaidan (怪談, Kaidan? n.đ. "Chuyện ma") ra mắt vào năm 1958 và kéo dài hơn một trăm số phát hành hàng tháng. Đúng như tên gọi, tuyển tập này xuất bản các câu chuyện siêu nhiên tập trung vào yūrei (oán hồn) và yōkai (quái vật). Sự thành công của nó với độc giả nữ đã khiến những tuyển tập shōjo tổng hợp khác cũng bắt đầu xuất bản manga kinh dị, đặt nền móng cho việc trở thành một nhánh phụ quan trọng của shōjo manga sau này.[38]

Cùng với sự phổ biến rộng rãi của manga trong thập kỷ này, tỷ lệ manga do các tạp chí shōjo xuất bản bắt đầu tăng lên. Ví dụ, trong khi manga chỉ chiếm 20% nội dung biên tập của tạp chí Shōjo Club vào giữa những năm 1950 thì tới cuối thập kỷ, tỉ lệ này đã tăng lên và chiếm hơn một nửa.[39] Nhiều tạp chí shōjo trên thực tế đã trở thành tạp chí manga; đồng thời với đó, một số công ty đã ra mắt tạp chí dành riêng cho manga shōjo. Đầu tiên có thể kể tới là Kodansha vào năm 1954 với Nakayoshi và sau đó tiếp theo là Shueisha vào năm 1955 với Ribon.[40] Sự kết hợp của những câu chuyện nhẹ nhàng được thừa hưởng từ thời kỳ trước chiến tranh, những câu chuyện kịch tính do Tokiwa-sō giới thiệu và tác phẩm trí tuệ phát triển trên thị trường kashi-hon, các nhà xuất bản chia shōjo manga của giai đoạn này thành ba phân loại chính: kanashii manga (かなしい漫画, kanashii manga? "manga của nỗi buồn"), yukai na manga (ゆかいな漫画, yukai na manga? "manga của niềm vui"), và kowai manga (こわい漫画, kowai manga? "manga với nội dung kinh dị").[41][42]

Những năm 1960: Sự xuất hiện của mangaka nữ

Trong những năm 1950, shōjo manga chủ yếu là do tác giả nam sáng tạo, đáng chú ý là Matsumoto Leiji, Ishinomori Shōtarō, Umezu Kazuo và Chiba Tetsuya.[43] Mặc dù một số mangaka (đặc biệt là Tezuka, Ishinomori và Umezu) đã sáng tác tác phẩm tập trung vào nữ anh hùng lanh lợi, nhưng hầu hết câu chuyện shōjo thời kỳ này thường tập trung vào nữ anh hùng có câu chuyện bi kịch và ở tình thế bị động, những người sau đó đã dũng cảm đứng lên chịu đựng nghịch cảnh.[44][34][45] Bên cạnh Ueda Toshiko, một số nữ mangaka bắt đầu hoạt động trong những năm 1950, đáng chú ý là Mizuno Hideko, Maki Miyako, Watanabe Masako và Hanamura Eiko. Những tác phẩm của họ hầu hết ra mắt trong tuyển tập kashi-hon Izumi.[45] Mặc dù họ chỉ chiếm một thiểu số những người sáng tác shōjo manga, nhưng ban biên tập của các tạp chí nhận thấy rằng tác phẩm của họ được độc giả nữ yêu thích hơn so với tác phẩm của các đồng nghiệp nam.[46]

Cho đến thập niên 1960, với sự phổ biến của truyền hình trong hộ gia đình Nhật Bản và sự trỗi dậy của những chương trình truyền hình dài tập nổi lên như một đối thủ cạnh tranh đáng gờm với các tạp chí. Nhiều tạp chí ấn bản hàng tháng đã ngừng hoạt động và bị thay thế bằng tạp chí hàng tuần (chẳng hạn như Shōjo FriendMargaret).[47] Nhằm đáp ứng nhu cầu về nội dung biên tập hàng tuần, các tạp chí đã tổ chức cuộc thi mà độc giả có thể gửi manga của họ để xuất bản. Mangaka nữ thường thống trị những cuộc thi này, rồi sau đó nhiều mangaka nghiệp dư nổi lên từ các cuộc thi này đã tiếp tục theo đuổi sự nghiệp sáng tác manga chuyên nghiệp.[48] Nghệ sĩ đầu tiên "trưởng thành" từ những cuộc thi này là Satonaka Machiko, người đã có cho mình tựa manga đầu tay, Pia no Shōzō ("Chân dung Pia", 1964) - xuất bản trên tạp chí Shōjo Friend khi mới 16 tuổi.[49]

shōjo manga của những năm 1960 chịu ảnh hưởng của phim hài lãng mạn Mỹ, chẳng hạn như Sabrina (1954), được chuyển thể thành manga vào năm 1963.

Sự xuất hiện của mangaka nữ đã dẫn đến sự phát triển của manga romcom (hài kịch lãng mạn), một thể loại trước đây không mấy được ưa chuộng với shōjo mangaka của nam. Mizuno Hideko là người đầu tiên đưa yếu tố hài kịch lãng mạn vào shōjo manga thông qua những bản chuyển thể manga từ phim hài lãng mạn Mỹ: Sabrina với tên Sutekina Cora vào năm 1963 và The Quiet Man với tên Akage no Scarlet vào năm 1966. Những mangaka khác, chẳng hạn như Watanabe Masako, Chieko Hosokawa và Hosono Michiko cũng sáng tác manga dựa trên phim hài lãng mạn Mỹ hoặc lấy cảm hứng rộng rãi từ các nữ diễn viên và người mẫu phương Tây hoặc bối cảnh phương Tây.[50] Cùng thời điểm đó, những mangaka như Nishitani Yoshiko trở nên nổi tiếng với manga rabu-kome ("hài kịch tình yêu"), với nội dung tập trung vào nhân vật chính là những nữ sinh trung học Nhật Bản với cốt truyện chủ yếu đặc tả vào mối quan hệ tình bạn, gia đình hay về những câu chuyện ở trường học hay như vấn đề về tình yêu.[51][52]

Mặc dù những bộ manga lãng mạn shōjo đầu tiên hầu như luôn là những câu chuyện tình yêu đơn giản và thông thường nhưng theo thời gian cũng như thông qua tác phẩm của các mangaka như Satonaka Machiko và Ichijō Yukari, thể loại này sở hữu nội dung và chủ đề phong phú hơn. [53] Sự đa dạng này được phản ánh trong các tiểu thể loại khác nhau như việc mangaka kinh dị Umezu Kazuo đã phá vỡ quy ước nghệ thuật shōjo bằng cách miêu tả nhân vật nữ xấu xí, đáng sợ và kỳ dị trong bộ truyện của mình xuất bản năm 1965, Reptilia được đăng trên tạp chí Shōjo Friend. Điều này đã dẫn đến việc nhiều shōjo mangaka khác cũng thể hiện những chủ đề đen tối và cấm kỵ trong tác phẩm của họ.[54] Shōjo về manga thể thao chẳng hạn như Attack No. 1 (1968 – 1970) của Urano Chikako đã bắt đầu miêu tả những nữ chính năng động thay vì thụ động.[55] Năm 1969, cảnh quan hệ tình dục đầu tiên trong shōjo manga được xuất bản trong Fire! (1969 – 1971) của Hideko Mizuno. [56]

Đến cuối thập niên 1960, hầu hết tạp chí shōjo giờ đây chỉ chuyên về manga và không còn xuất bản văn học hay những bài báo như trước.[57] Khi kashi-hon bước vào thời kỳ suy tàn, các tuyển tập truyện tranh từ đó mà cũng đi theo lối mòn như vậy, hầu hết đều ngừng hoạt động; các mangaka và tác giả dần chuyển sang tạp chí manga.[28] Với phần lớn shōjo mangaka là nữ;[53] thể loại này đã phát triển trở thành một bản sắc hình ảnh độc đáo, phân biệt với manga shōnen.[57]

Những năm 1970: "Thời kỳ hoàng kim"

Hagio Moto, một nhân vật chủ chốt của Year 24 Group, vào năm 2008.

Đến đầu những năm 1970, hầu hết shōjo mangaka là nữ, mặc dù vị trí biên tập viên tại tạp chí chủ yếu vẫn do nam giới đảm nhận.[58] Trong suốt nhiều thập kỷ, shōjo manga đã trở nên đa dạng hơn về mặt hình ảnh và chủ đề vì nó phản ánh sự ưu thế của cách mạng tình dục và phong trào giải phóng phụ nữ trong lịch sử.[59] Sự thay đổi sang các câu chuyện phức tạp về mặt tự sự và tường thuật gắn liền với sự xuất hiện của một thế hệ shōjo mangaka mới được gọi chung là Year 24 Group (bao gồm Hagio Moto, Takemiya Keiko, Ōshima Yumiko và một số những mangaka khác).[53][29] Các tác phẩm của Year 24 Group thường tập trung vào việc đặc tả tâm lý nội tâm của nhân vật và giới thiệu thể loại mới cho shōjo manga chẳng hạn như tiểu thuyết phiêu lưu, khoa học viễn tưởng, giả tưởng và phim truyện lịch sử.[53][60] Phong cách nghệ thuật của nhóm chịu ảnh hưởng của Satonaka Machiko và Ichijō Yukari, những người đã tiên phong trong việc tạo ra tiêu chuẩn minh họa mới cho shōjo manga đặc trưng bởi những nét vẽ thanh mảnh và nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt đẹp đến mức dường như "phóng đại" hay như để bảng phân cảnh chồng lên nhau hoặc hoàn toàn không có viền.[61]

Trong những năm 1970, rất nhiều mangaka đã góp phần vào sự đổi mới của shōjo manga. Takemiya và Hagio là những người khởi xướng một thể loại mới, shōnen-ai (tình yêu nam - nam) với tác phẩm Sanrūmu Nite (1970) của Takemiya và Tōma no Shinzō (1971) của Hagio.[62] Bộ anime Versailles no Bara (1972 – 1973) của Ikeda Riyoko đã trở thành thành công thương mại lớn đầu tiên được giới phê bình đánh giá cao trong lĩnh vực manga shōjo. Bộ truyện đã mang tính đột phá trong việc miêu tả giới tính và tình dục và có ảnh hưởng trong việc miêu tả bishōnen ("những chàng trai đẹp"), một thuật ngữ dành cho nhân vật nam phân tính luyến ái.[56] Mutsu Ako và Iwadate Mariko là những người dẫn đầu một xu hướng mới của manga otomechikku. Trong khi các tác phẩm của Year 24 Group được định nghĩa bởi sự phức tạp trong cốt truyện thì trái lại, manga otomechikku lại tập trung vào cuộc sống bình thường của những nữ sinh trung học Nhật Bản. Tuy nhiên, thể loại này sau đó đã giảm dần tính phổ biến vào cuối thập kỷ nhưng cốt truyện và phong cách hình ảnh của nó đã tạo nên tác động lâu dài đối với shōjo manga đặc biệt là tính thẩm mỹ mới nổi của phong cách kawaii.[63][64][65]

Những shōjo mangaka kỳ cựu như Maki Miyako và Mizuno Hideko bắt đầu phát triển manga mới cho những độc giả trước đây là trẻ em giờ đây đã trưởng thành. Mặc dù những nỗ lực của họ không thành công về mặt thương mại khi chỉ tồn tại với các tạp chí trong thời gian ngắn như Papillon (パピヨン) tại Futabasha vào năm 1972. Nhưng các tác phẩm của họ là nền móng cho josei manga (truyện tranh dành cho phụ nữ) trước khi thể loại này chính thức xuất hiện vào đầu những năm 1980.[66][67][68]

Đến cuối những năm 1970, ba nhà xuất bản lớn nhất Nhật Bản (lúc đó là Kodansha, ShogakukanShueisha) và Hakusensha đã tự khẳng định mình là những nhà xuất bản shōjo manga lớn nhất và duy trì vị trí thống trị này trong nhiều thập kỷ sau đó.[69] Sự đổi mới của shōjo manga trong suốt khoảng thời gian này đã thu hút sự chú ý của các nhà phê bình manga, những người trước đây đã bỏ qua shōjo manga hoặc coi nó là không nghiêm túc. Nhưng, giờ đây, những người này lại tuyên bố rằng shōjo manga đã bước vào "thời kỳ hoàng kim" của mình.[70][71] Việc này đã thu hút độc giả nam đến với shōjo manga mặc dù đó chỉ là một số ít độc giả shōjo khi so với tổng thể. Nhưng suy xét cho cùng, họ vẫn là đối tượng của thể loại này.[72][73]

Những năm 1980 và 1990: Phát triển tiểu thể loại

Kể từ những năm 1970, shōjo manga đã tiếp tục phát triển về phong cách đồng thời mở rộng thành các tiểu thể loại khác nhau, nhưng suy cho cùng lại có sự chồng chéo lên nhau về mặt tổng thể.[74] Sự phát triển này bắt đầu với sự thay đổi về tuyến nhân vật và bối cảnh: trong khi nhân vật và bối cảnh nước ngoài phổ biến trong giai đoạn hậu chiến ngay sau đó, các câu chuyện bắt đầu lấy bối cảnh ở Nhật Bản thường xuyên hơn khi đất nước bắt đầu khẳng định lại bản sắc độc lập dân tộc.[64] Giáo sư Fujimoto Yukari tại đại học Meji viết rằng: Bắt đầu từ những năm 1990, manga shōjo bắt đầu quan tâm đến sự tự hoàn thiện bản thân. Bà gợi ý rằng Chiến tranh vùng Vịnh đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các nhân vật nữ với mục tiêu "chiến đấu để bảo vệ vận mệnh của cộng đồng" chẳng hạn như Red River (1995 – 2002), Basara (1990 – 1998), Magic Knight Rayearth (1993 – 1996) và Sailor Moon (1991 – 1997). Fujimoto cho rằng shōjo manga những năm 1990 miêu tả mối quan hệ tình cảm giữa những người phụ nữ mạnh mẽ hơn mối quan hệ giữa nam và nữ.[75]

Josei manga và shōjo dành cho người lớn

Hình bìa minh họa cho bộ truyện tranh josei Kōrei Shussan Don to Koi!! (ja) của Motoko Fujita, một cuốn tự truyện kể về quá trình mang thai của tác giả ở tuổi 43.

Năm 1980, Kodansha cho ra đời Be Love với tư cách là tạp chí truyện tranh đầu tiên nhắm đến đối tượng độc giả là phụ nữ trưởng thành. Ngay sau đó, một loạt các tạp chí tương tự đã ra đời như Feel Young của Kodansha, JudyYou của Shogakukan, Young YouOffice You của Shueisha. Thể loại manga này được gọi là "truyện tranh dành cho phụ nữ" hoặc phổ biến hơn với tên gọi josei manga - có nhiều điểm chung với shōjo manga. Nhưng điểm khác biệt chính nằm ở việc tập trung vào nhân vật chính là người lớn thay vì thanh thiếu niên hoặc những người trẻ hơn.[76] Tình dục cũng được miêu tả cởi mở hơn trong josei manga, tuy nhiên sau đó những miêu tả này lại mâu thuẫn với shōjo manga - thể loại truyện bắt đầu miêu tả tình dục cởi mở hơn vào những năm 1990.[77] Một số tạp chí truyện tranh đã làm mờ ranh giới giữa shōjojosei bằng việc cho xuất bản các tác phẩm có nét thẩm mỹ giống với shōjo manga nhưng lại đề cập đến chủ đề dành cho người lớn của josei manga. Mọt số ví dụ điển hình bao gồm Kiss của Kodansha, ChorusCookie của Shueisha và Betsucomi của Shogakukan.[78]

Kinh dị và khiêu dâm

Các ấn phẩm shōjo ngách dường như rời xa quy ước điển hình của shōjo manga từng xuất hiện vào thập niên 1980 (đặc biệt là trong thể loại kinh dị và khiêu dâm). Điều này xảy ra trong bối cảnh kashi-hon đang trên đà suy giảm, và các nhà xuất bản chật vật hoạt động sau những thay đổi của thị trường với việc cho thuê sách bằng cách cung cấp tập truyện tranh được sưu tầm chưa từng được đăng nhiều kỳ trên tạp chí. Hai công tu xuất bản là Hibari Shōbo và Rippū Shōbo nằm trong số những công ty xuất bản bắt đầu phát hành những manga kinh dị shōjo theo phương thức này. Phương thức này bao gồm tập truyện chứa sự kết hợp giữa các cuốn tái bản kashi-hon và nguyên tác.[79] Shōjo manga kinh dị do các nhà xuất bản kashi-hon phát hành thường đẫm máu và ghê rợn hơn so với manga kinh dị của tạp chí shōjo chính thống. Trong một số trường hợp còn đã dẫn đến những cáo buộc về nội dung khiêu dâm và vụ kiện của hội đồng công dân.[80] Những nhà xuất bản này đã đóng cửa vào cuối những năm 1980 trước khi chúng bị tạp chí shōjo manga chính thống thay thế, dành riêng cho thể loại kinh dị với sự bắt đầu của Monthly Halloween vào năm 1986.[81]

Vào những năm 1990, một thể loại truyện tranh khiêu dâm nhẹ nhàng mang phong cách shōjo đã xuất hiện dưới tên thể loại là tình yêu tuổi vị thành niên. Thể loại này có nhiều điểm chung với truyện tranh josei khiêu dâm ngoại trừ độ tuổi của nhân vật chính thường ở độ tuổi cuối thiếu niên hoặc đầu đôi mươi.[82] Các tạp chí tình yêu tuổi vị thành niên phát triển mạnh ở những nhà xuất bản nhỏ hơn, chẳng hạn như Ohzora Publishing, nơi đã xuất bản nhiều loại truyện tranh josei và tình yêu tuổi vị thành niên. Thể loại này dần dần di chuyển từ nhà xuất bản nhỏ sang nhà xuất bản lớn hơn, chẳng hạn như Dessert hay các tạp chí shōjo chính thống của Nhà xuất bản Shogakukan.[82]

Đến những năm 2000, thể loại shōjo manga ngách này (đặc biệt là thể loại tình yêu tuổi vị thành niên) đã phần lớn dừng xuất bản ở định dạng in giấy để chuyển sang Internet nhằm thích ứng với sự gia tăng phổ biến của điện thoại di động ở Nhật Bản.[83]

Những năm 2000–nay: Tái cấu trúc và ảnh hưởng của anime

Một phần của loạt bài
Mangaanime
Manga
Phân loại độc giả
Thể loại
Cá nhân
Liên quan
  • x
  • t
  • s

Sự phát triển theo khuynh hướng đa phương tiện của shōjo manga

Vào những năm 2000, các nhà xuất bản manga hướng đến đối tượng nữ giới phải đối mặt với một thị trường đang thay đổi với nhiều biến động khôn lường: manga josei giảm độ phổ biến. Các cô gái giờ đây ngày càng ưa chuộng phim truyền hình hơn những loại hình giải trí in ấn và thị trường manga nói chung cũng phát triển chậm lại. Nhiều nhà xuất bản lớn đã tái cấu trúc hoạt động của tạp chí shōjo manga để thích ứng với thị trường đồng thời đóng cửa một số tạp chí và ra mắt các ấn phẩm mới.[84] Hầu hết tạp chí mới ra mắt trong giai đoạn này đều thất bại về mặt thương mại.[85]

Năm 2008, nhà xuất bản Fusosha, trước đây không xuất bản manga, đã tham gia thị trường xuất bản này với tạp chí manga shōjo "Malika". Tạp chí này không theo thông lệ so với tạp chí shōjo manga khác cùng thời. Bắt đầu với việc ngoài xuất bản manga của những tác giả nữ nổi tiếng, tạp chí này còn có sự xuất hiện của những người nổi tiếng trong lĩnh vực truyền thông, minh họa và thiết kế. Malika cũng vận hành một trang web đăng tải nhạc và câu chuyện bên lề. Tuy nhiên không thoát khỏi số phận, tới cuối cùng Malika đã nhận thất bại về thương mại và đóng cửa sau sáu số. Tuy gặp thất bại về mặt thương mại nhưng Malika đã trở thành biểu tượng cho một xu hướng mới trong shōjo manga: tiếp thị đa phương tiện, nơi các tác phẩm được xuất bản đồng thời trên nhiều phương tiện khác nhau.[86]

Những thành công ban đầu của shōjo manga theo cách tiếp cận đa phương tiện này bao gồm Nana (2000 – 2009) của Yazawa Ai, Lovely Complex (2001 – 2006) của Nakahara Aya và Nodame Cantabile (2001 – 2010) của Ninomiya Tomoko. Tất cả đều được chuyển thể thành phim, phim truyền hình, phim hoạt hình anime, trò chơi điện tử và đĩa CD nhạc thương hiệu theo sê-ri.[87] Các bộ manga cũ hơn, chẳng hạn như Attack No.1Boys Over Flowers đã tìm lại thành công sau khi được tái khởi động với những bản chuyển thể đa phương tiện.[88]

Moe trong shōjo manga

Các tạp chí shōjo như AsukaPrincess vốn nổi bật với việc xuất bản những thể loại đa dạng như kỳ ảokhoa học viễn tưởng giờ đây đã có thêm những đối thủ cạnh tranh mới vào những năm 2000 như: Monthly Comic Zero Sum (2002), Sylph (2006), Comic Blade Avarus (2007) và Aria (2010).[89] Những tạp chí mới này nhắm đến đối tượng độc giả là người hâm mộ anime và yaoi bằng cách xuất bản manga có phong cách hình ảnh gần giống với anime, có nhân vật chính bishōnen trong không gian kỳ ảo và sử dụng đặc trưng về hình ảnh và tường thuật của shōjo manga. Tóm lại, những tạp chí này đại diện cho sự hòa nhập của phong cách moe vào shōjo manga (một thuật ngữ mô tả biểu cảm dễ thương tập trung vào cảm xúc yêu mến và phấn khích, khác biệt với kawaii, biểu cảm dễ thương ngây thơ và trong sáng hơn thường gắn liền với shōjo manga).[89]

Moe còn được thể hiện trong shōjo manga thông qua sự xuất hiện của cái gọi là shōjo manga dành cho nam, bắt đầu với các tạp chí Comic High! (2004) và Comic Yell! (2007). Những tạp chí thuộc thể loại này xuất bản manga nhắm đến độc giả nam nhưng sử dụng phong cách hình ảnh lấy cảm hứng đáng kể từ phong cách nghệ thuật thẩm mỹ của moeshōjo manga.[90]

Ở quốc gia nói tiếng Anh

Bản dịch tiếng Anh của shōjo manga lần đầu tiên được xuất bản ở Bắc Mỹ vào cuối những năm 1990. Vì thị trường truyện tranh Mỹ chủ yếu hướng đến độc giả nam vào thời điểm đó, shōjo manga đã sớm thành công khi nhắm đến đối tượng độc giả nữ vì gần như chưa có nhà xuất bản nào khai thác khai thác mảng đề tài này. Những bản dịch tiếng Anh của các tựa truyện như Sailor Moon, Hana yori DangoFruits Basket đã trở thành những tựa đề có doanh số bán chạy nhất. Tuy nhiên, thị trường manga tiếng Anh rơi vào khủng hoảng vào cuối những năm 2000 do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính 2007 – 2008 và khi thị trường manga tiếng Anh lấy lại sự phổ biến vào những năm 2010, shōnen manga nổi lên như danh mục manga được yêu thích nhất trong số độc giả nói tiếng Anh. Tuy nhiên, các nhà xuất bản manga lớn của tiếng Anh đều duy trì một ấn hiệu shōjo manga lớn mạnh nhẩt cho riêng mình. Điển hình như việc Viz Media đặc biệt xuất bản shōjo manga theo ấn hiệu Shojo Beat. Ấn hiệu này cũng được xuất bản dưới dạng tạp chí manga nhiều kỳ vào giữa đến cuối những năm 2000.[91]

Phong cách

Bối cảnh và những yếu tố chung

Bìa của số ra tháng 9 năm 1926 của Shōjo Gahō với tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ trữ tình Takabatake Kashō.

Phong cách hình ảnh của shōjo manga phần lớn giống với manga shōnen cho đến cuối những năm 1950. Sự việc này xảy ra một phần là vì cả hai loại shōjo manga và shōnen đều do cùng một nhóm mangaka sáng tác, chủ yếu là nam giới.[92] Trong giai đoạn trước chiến tranh, những mangaka này đặc biệt bị ảnh hưởng bởi phong cách hiện đại của George McManus.[24] Trong khi sau này, ở giai đoạn hậu chiến, phong cách năng động của Tezuka Osamu lại trở thành góc độ tham chiếu chính cho manga. Mặc dù shōjo manga vẫn kế thừa một số ảnh hưởng nhưng phong cách độc đáo này đã xuất hiện vào cuối những năm 1950, giúp phân biệt shōjo manga với manga shōnen, chủ yếu bắt nguồn từ shōjo shōsetsu (tiểu thuyết dành cho nữ sinh) trước chiến tranh.[93]

Shōjo shōsetsu có đặc trưng là phong cách văn xuôi "hoa mỹ và hàm xúc" tập trung vào những lời độc thoại nội tâm của nhân vật chính.[93] Lời kể thường được đánh dấu bằng những yếu tố phi ngôn ngữ mà thông qua đó có thể diễn tả cảm xúc của nhân vật chính; nhà văn Yoshiya Nobuko nổi tiếng sử dụng nhiều dấu chấm lửng ("...") với giọng điệu cảm thán và dấu gạch ngang ở giữa câu. Tác giả sử dụng dấu gạch ngang trên trang theo cách giống như với câu thơ.[94][95] Văn xuôi xuất hiện kèm với tranh minh họa của các họa sĩ trữ tình, cùng nét đặc trưng nằm ở phong cách trữ tình chịu ảnh hưởng của Art NouveauNihonga. Sự chú ý đặc biệt này được dành cho shōjo - họ được miêu tả là ăn mặc đẹp và sở hữu đôi mắt to, chi tiết với ánh sao lung linh nổi bật.[96]

Phong cách tường thuật và minh họa này bắt đầu ảnh hưởng đến shōjo manga từ cuối những năm 1950; họa sĩ trữ tình kiêm mangaka Takahashi Macoto được xem là người đầu tiên ứng dụng phong cách này trong manga.[97][98][99][100] Những mangaka và sau đó là shōjo mangaka đã nhanh chóng áp dụng phong cách này vào những năm 1960. Trong khi vào những năm 1970, các mangaka hoạt động dưới tên Year 24 Group đã phát triển phong cách này một cách đáng kể.[101] Theo Takemiya Keiko (mangaka, học giả và thành viên của Year 24 Group), shōjo manga có thể phát triển phong cách riêng biệt này vì thể loại này bị các biên tập viên xem thường. Do đó, mangaka có quyền tùy ý vẽ truyện theo bất kỳ phong cách nào họ mong muốn miễn sao phản hồi của độc giả vẫn tích cực.[102] Những yếu tố phong cách do Year 24 Group phát triển dần dần trở thành dấu ấn thị giác của shōjo manga; nhiều yếu tố trong số này sau đó tác động ngược sang lại với manga shōnen. Chẳng hạn như việc sử dụng bố cục panel không cứng nhắc hay như việc thể hiện đôi mắt cực kỳ chi tiết mà qua đó bộc lộ cảm xúc của nhân vật.[69]

Bố cục

Bắt đầu từ những năm 1970, bố cục ô tranh truyện tranh trong shōjo manga đã phát triển theo một phong cách mới và riêng biệt. Trong cuốn sách xuất bản năm 1997 của mình "Tại sao Manga lại thú vị đến vậy? Ngữ pháp và Biểu đạt của nó", mangaka kiêm nhà phê bình Natsume Fusanosuke xác định và đặt tên cho ba khía cạnh chính của việc xây dựng ô tranh giúp phân biệt shōjo manga với shōnen manga. Thứ nhất, naiho ("bọc tranh"), đề cập đến việc sử dụng bố cục đột phá, phá vỡ cách tiếp cận truyện tranh truyền thống theo dạng một loạt ô vuông nối tiếp nhau.[103] Theo phong cách này, những yếu tố vượt ra ngoài ranh giới của các ô tranh hoặc viền của ô tranh hoàn toàn bị loại bỏ.[104] Khoảng cách giữa các ô tranh cũng được thay đổi, với dãy ô tranh tuần tự mô tả cùng một sự kiện từ góc độ hoặc khung nhìn khác nhau.[103] Thứ hai là kaiho ("giải phóng") đề cập đến việc sử dụng giãn khung tranh để tạo ra trang truyện thong thả và thư giãn hơn. Thông thường trong bố cục không có viền ô tranh, chữ thoại được loại bỏ khỏi bong bóng lời thoại và trải rộng trên trang. Đặc biệt trong trường hợp hội thoại truyền đạt suy nghĩ, cảm xúc và nội tâm của người nói.[104][103] Thứ ba là mahaku ("phá vỡ") đề cập đến việc sử dụng biểu tượng của khoảng trắng.[105]

Đôi mắt to

Một yếu tố phong cách nổi bật của shōjo manga là hình ảnh nhân vật có đôi mắt to, chi tiết với ánh sao nổi bật,[106][107] đôi khi gọi là dekame (デカ目, dekame?).[108] Tuy nhiên nguồn gốc của kỹ thuật này không bắt nguồn từ manga shōjo. Các tác giả đã vẽ đôi mắt to trong manga từ đầu thế kỷ 20, nổi bật là Tezuka Osamu, người đã lấy cảm hứng từ phong cách trang điểm sân khấu của nữ diễn viên trong Đoàn kịch Takarazuka khi vẽ mắt của nhân vật trong truyện của mình.[48] Một ngôi sao lớn ở trung tâm thay thế cho dấu chấm đồng tử bắt đầu xuất hiện trong shōjo manga của Tezuka và Shotaro Ishinomori từ giữa những năm 1950.[109] Mặc dù những chi tiết này thường hướng đến phong cách hiện thực hơn là những nét biểu cảm của shōjo manga.[110]

Cùng khoảng thời gian đó, phong cách nghệ thuật của Nakahara Jun'ichi cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến các mangaka kashi-hon, đặc biệt là Takahashi Macoto.[110] Takahashi đã kết hợp phong cách vẽ mắt của Nakahara vào manga của mình (đôi mắt to, giống búp bê với ánh sáng nổi bật và lông mi dài) đồng thời dần dần lồng ghép yếu tố trong phong cách của chính bản thân mình: Chẳng hạn như việc sử dụng chấm, ngôi sao và nhiều màu sắc để thể hiện mống mắt.[110] Vào cuối những năm 1950, Maki Miyako (một trong những mangaka nổi tiếng nhất thời bấy giờ) đã áp dụng phong cách của Takahashi. Hành động ấy đã làm cho phong cách của Miyako được áp dụng, phổ biến rộng rãi trong các tạp chí shōjo manga khác.[107]

Kể từ thời điểm đó, những mẫu thiết kế mắt đa dạng đã nở rộ trong shōjo manga (thường là với đặc điểm như lông mi dài, sử dụng vòng tròn đồng tâm với sắc thái khác nhau và sự biến dạng của mống mắt để tạo hiệu ứng lấp lánh).[22] Việc tập trung vẽ cực kỳ tỉ mĩ đôi mắt làm cho các mangaka chú tâm hơn vào góc nhìn cận cảnh trên khuôn mặt nói chung; từ đó thu hút sự chú ý đến cảm xúc, thể hiện qua những cảm xúc biểu lộ qua đôi mắt nhân vật.[111] Bên cạnh đó, mắt cũng trở thành dấu hiệu nhận biết giới tính; với nhân vật nữ thường có đôi mắt to hơn nhân vật nam.[102]

Chủ đề

Mối quan hệ giữa các cá nhân

Một trong những khái niệm phổ biến nhất trong shōjo manga là ningen kankei ("mối quan hệ giữa các cá nhân").[112] Thuật ngữ này đề cập đến mối quan hệ giữa các nhân vật và sự thay đổi trong cảm xúc của họ.[11] Mối quan hệ giữa các nhân vật là nội dung cốt lõi của phần lớn tựa shōjo manga, đặc biệt là đặc tả về tình bạn, tình cảm và tình yêu.[11] Lời kể thường tập trung vào nội tâm của nhân vật chính; trong đó cảm xúc, tình cảm, ký ức và những lời độc thoại nội tâm của họ được thể hiện trực quan thông qua các kỹ thuật như sắp xếp ô tranh và thể hiện chi tiết của đôi mắt.[112] Khi xung đột xảy ra, phương thức trao đổi phổ biến nhất là đối thoại và trò chuyện, trái ngược với chiến đấu vật lý thường thấy trong shōnen manga.[6]

Nhà nghiên cứu manga Fujimoto Yukari cho rằng nội dung của shōjo manga đã phát triển song song với sự phát triển của xã hội Nhật Bản; đặc biệt là về vị trí của phụ nữ, vai trò của gia đình và mối quan hệ lãng mạn. Bà lưu ý rằng phim truyền hình về gia đình thường tập trung vào mối quan hệ giữa mẹ và con gái rất phổ biến vào những năm 1960, trong khi những câu chuyện về mối quan hệ lãng mạn trở nên phổ biến hơn vào những năm 1970 và những câu chuyện về hình tượng người cha trở nên phổ biến vào những năm 1990.[113] Khi shōjo manga bắt đầu tập trung vào thanh thiếu niên thay vì trẻ em bắt đầu từ những năm 1970, quan hệ lãng mạn nói chung trở nên quan trọng hơn quan hệ gia đình.[114] Những mối quan hệ lãng mạn này thường là dị tính mặc dù đôi khi có thể là đồng tính.[113]

Giới tính và tình dục

Truyện tranh chiến tranh shōjo xuất hiện cùng thời với việc quân sự hóa Nhật Bản vào những năm 1930, trong khi việc nhấn mạnh travesti bắt nguồn từ sự nổi tiếng của các nữ diễn viên cải trang của Đoàn kịch Takarazuka (nữ diễn viên Sueko Takigawa trong ảnh).

Chuyện các nhân vật bỏ qua những yếu tố truyền thống hay những khuôn mẫu cứng nhắc xung quanh những vấn đề giới tính và tình dục đã trở thành một mô-típ trọng tâm của shōjo manga ngay từ những ngày đầu khi nó mới hình thành.[115] Các nhân vật chính tomboy (gọi là otenba) thường xuyên xuất hiện trong shōjo manga trước chiến tranh.[21] Nguyên mẫu này có hai biến thể chính: "những cô gái chiến đấu" (như trong Nazo no Kurōbaa của Matsumoto Katsuji, nơi một cô gái cầm vũ khí để bảo vệ nông dân trong làng của mình) và "cô gái travesti" (như trong Kanaria Ōjisama của Ishida Eisuke, trong truyện này một công chúa được nuôi dạy như hoàng tử). Ribon no Kishi của Tezuka Osamu đại diện cho sự hợp thành của hai nguyên mẫu này: trong truyện, một công chúa được nuôi dạy như hoàng tử phải đối mặt với kẻ thù trong chiến đấu.[116] Những nguyên mẫu này thường phổ biến trong những tựa tiểu thuyết chiến tranh shōjo xuất hiện cùng thời với việc quân sự hóa Nhật Bản vào những năm 1930.[117] Trong khi đó, việc nhấn mạnh vào travesti bắt nguồn từ sự nổi tiếng của các nữ diễn viên cải trang của Đoàn kịch Takarazuka.[48] Sau này độc giả ngày càng yêu thích Otenba trong thời kỳ hậu chiến. Nhà phê bình Yonezawa Yoshihiro cho rằng điều này xảy ra là do những tiến bộ về bình đẳng giới tạo nên dấu mốc bằng việc ghi nhận sự bình đẳng của giới tính được đề cập trong Hiến pháp Nhật Bản năm 1947.[118]

Đến cuối những năm 1960, các mangaka bắt đầu miêu tả những vấn đề tình dục (cả dị tính và đồng tính) một cách tự do hơn trong tựa truyện shōjo manga. Sự thay đổi này một phần là do sự ảnh hưởng và tác động của những quy tắc kiểm duyệt đối với manga: Ví dụ, những cảnh sex đầu tiên trong shōjo manga bao gồm việc che nhân vật đang quan hệ tình dục bằng ga trải giường để lách luật cấm mô tả bộ phận sinh dụclông mu.[56] Sự phát triển của những cách thể hiện giới tính trong tình dục này đã diễn ra song song với sự nữ tính hóa của tác giả và độc giả manga shōjo. Vì thể loại này chuyển từ chủ yếu do nam giới sáng tác cho đối tượng là những trẻ em gái sang do phụ nữ sáng tác cho đối tượng là phụ nữ tuổi vị thành niên và thanh niên. Kể từ những năm 1970, shōjo manga hầu như chỉ do phụ nữ sáng tác.[46]

Đồng tính luyến ái

Manga tình cảm nam - nam, (gọi là yaoi hoặc "tình yêu của con trai" (BL)) là một thể loại quan trọng của shōjo manga.

Mặc dù chỉ chiếm một phần nhỏ trong shōjo nói chung nhưng yaoi hoặc BL là một tiểu thể loại quan trọng của shōjo manga. Các tác phẩm trong thể loại này thường đặc tả những người đàn ông phi giới tính (gọi là bishōnen) và tập trung vào sự kỳ ảo lãng mạn hơn là việc hoàn toàn mô tả theo phong thái hiện thực về quan hệ đồng tính.[119] Yaoi nổi lên thành một tiểu thể loại chính thức của shōjo manga vào những năm 1970, nhưng sử dụng lại cách miêu tả mối quan hệ đồng tính nam như trước đây; đồng thời với đó là phát triển thêm các chủ đề song tính khác vốn đã tồn tại từ trước đó trong shōjo manga.[120] Các nhà phê bình Nhật Bản xem yaoi là thể loại tạo điều kiện cho độc giả của mình tránh xa tình dục của phụ nữ trưởng thành bằng cách tách tình dục khỏi cơ thể của chính họ[121] cũng như tạo ra sự linh hoạt trong nhận thức về giới tính và tình dục bằng cách từ chối vai trò giới tính do xã hội quy định.[122] Giới chuyên môn cũng nhìn ra sự tương đồng giữa yaoi và sự phổ biến của chủ nghĩa đồng tính nữ trong phim khiêu dâm[123] với thể loại này được miêu tả là một dạng của "Ái vật phụ nữ".[124]

Truyện tranh lãng mạn nữ - nữ, còn gọi là yuri có mối liên hệ lịch sử và mối liên hệ chủ đề với shōjo manga kể từ khi chúng xuất hiện vào những năm 1970. Tuy nhiên yuri không hoàn toàn chỉ giới hạn ở shōjo và được xuất bản trên nhiều nhóm nhân khẩu học đọc truyện tranh khác nhau.[125] Mối quan hệ giữa văn hóa shōjo và lãng mạn nữ - nữ bắt nguồn từ thời kỳ trước chiến tranh với những câu chuyện thuộc thể loại Class S, thể loại tập trung vào tình bạn lãng mạn giữa những người là con gái. Đến thời kỳ hậu chiến, những tác phẩm này phần lớn giảm dần sự yêu thích mà dần dần nhường chỗ cho các tác phẩm tập trung vào đề tài tình yêu nam - nữ.[126] Fujimoto Yukari cho rằng vì độc giả của shōjo manga chủ yếu là phụ nữ dị tính, nên vấn đề đồng tính nữ hiếm khi được đề cập đến.[127] Fujimoto nhận thấy xu hướng bi kịch chủ yếu trong hầu hết câu chuyện yuri hướng đến là sự "lún mình" sâu quá mức vào quan hệ của các nhân vật mà từ đó dẫn đến những cuộc chia ly hoặc thậm chí là cái chết - được xem là đại diện cho nỗi sợ hãi về tình dục nữ giới của độc giả nữ, điều mà bà cũng cho là cách lý giải sự quan tâm của độc giả shōjo đối với truyện tranh yaoi.[128]

Ngoại cảm

Shōjo manga thường xuyên sử dụng những yếu tố siêu nhiênkinh dị (chẳng hạn như những câu chuyện tập trung vào yūrei (bóng ma), oni (quỷ dữ) và yōkai (yêu tinh) hoặc được xây dựng dựa trên những truyền thuyết đô thị Nhật Bản hoặc truyền thuyết dân gian Nhật Bản).[42] Các tác phẩm này thường tập trung vào nữ giới, nơi cả nhân vật con người và sinh vật siêu nhiên thường là phụ nữ hoặc bishōnen.[129] Shōjo manga về ngoại cảm gây dựng và duy trì sự phổ biến bằng miêu tả tình huống tạo điều kiện cho độc giả nữ tự do khám phá những cảm xúc ghen tuông, tức giận và thất vọng - chúng thường không được thể hiện trong shōjo manga chính thống vốn chỉ tập trung vào nhân vật dễ thương và tình tiết kịch tính.[130]

Xung đột giữa mẹ và con gái, nỗi sợ hãi hoặc những câu chuyện về việc những nhân vật từ chối tình mẫu tử xuất hiện như một mô-típ chủ đạo trong shōjo manga về ngoại cảm. Ví dụ, những câu chuyện kể về người mẹ mang hình dạng yêu tinh hoặc ma quỷ, con gái của yêu tinh bị biến thành yêu tinh, việc mang thai bất chính do loạn luân và những người mẹ phạm tội giết con vì ghen tuông hoặc mất trí.[131] Áp lực và sự đàn áp xã hội từ một xã hội phụ hệ Nhật Bản cũng trở thành chi tiết lặp lại như một mô-típ. Chẳng hạn như một lời nguyền hoặc hồn ma báo thù bắt nguồn từ một người phụ nữ bị sát hại hoặc nạn nhân của quấy rối. Trong những câu chuyện này, lời nguyền thường được giải quyết bằng cách thể hiện lòng trắc ẩn với hồn ma thay vì cố gắng tiêu diệt nó.[132] Những câu chuyện về truyền thuyết đô thị Nhật Bản đặc biệt phổ biến vào những năm 1970[133] và thường tập trung vào những câu chuyện phổ biến trong giới nữ thiếu niên Nhật Bản[134] chẳng hạn như Kuchisake-onna, Hanako-san và Teke Teke.[135]

Thời trang

Mối quan hệ giữa văn hóa shōjo và thời trang bắt nguồn từ tạp chí shōjo trước chiến tranh; giai đoạn này xuất hiện các mangaka minh họa như Nakahara Jun'ichi ghi mục lục thời trang, bao gồm hướng dẫn bằng văn bản về cách độc giả có thể tự may những bộ trang phục. Khi manga ngày càng trở nên phổ biến trong thời kỳ hậu chiến, tạp chí shōjo tiếp tục tập trung vào thời trang bằng cách xuất bản tác phẩm có nhân vật mặc quần áo cầu kỳ hoặc thông qua chiến dịch quảng cáo cung cấp quần áo của nhân vật manga làm giải thưởng. Những mangaka nổi tiếng gắn liền với xu hướng này bao gồm Takahashi Macoto, Watanabe Masako và Maki Miyako, trong đó Maki sở hữu các mẫu thiết kế làm nền tảng cho búp bê Licca-chan nổi tiếng vào năm 1967.[68]

Đến những năm 1970, khi xu hướng tiêu dùng chuyển từ may quần áo sang mua sắm quần áo; shōjo manga cũng đi theo xu hướng này với sự xuất hiện của những câu chuyện xoay quanh sự nghiệp của các nhà thiết kế thời trang. Manga thuộc tiểu thể loạih otomechikku của shōjo manga đã nhấn mạnh phong cách thời trang kawaii (dễ thương) lấy cảm hứng từ phong cách Ivy League. Sau đó, tạp chí thời trang nữ như An AnOlive cũng áp dụng tính thẩm mỹ otomechikku.[136]

Một số tạp chí thời trang nữ bắt đầu xuất bản shōjo manga của riêng họ vào những năm 1980, chẳng hạn như với CUTiE (xuất bản Tokyo Girls Bravo của Okazaki Kyōko và Jelly Beans của Moyoco Anno) và Zipper (xuất bản Paradise Kiss của Ai YazawaTeke Teke Rendezvous của George Asakura).[136] Cosplay bắt đầu ảnh hưởng đến shōjo manga vào những năm 1990 mà từ đó dẫn đến sự phát triển của các tựa phim như Sailor Moon thu hút trực tiếp độc giả otaku. Điều này dẫn đến sự thay đổi trong cách thể hiện thời trang của shōjo giữa tác phẩm mô tả thời trang hàng ngày và tác phẩm mô tả trang phục cosplay. Bản thân thế giới thời trang bắt đầu quan tâm đến shōjo manga vào những năm 2000, khi mà các buổi trình diễn thời trang giới thiệu những bộ trang phục lấy cảm hứng từ shōjo manga hoặc lấy từ trang phục trong các thương hiệu shōjo nổi tiếng như Sailor Moon.

Suy xét cho cùng, quần áo của nhân vật trong shōjo manga phản ánh xu hướng thời trang của thời đại mà bộ truyện ra đời.[137] Tuy nhiên, một số đặc điểm chung nhất vẫn được giữ nguyên dù qua các thời kỳ như việc: quần áo được trang trí bằng ruy băng hoặc diềm xếp; trang phục đặc biệt nữ tính và trẻ con. Những bộ trang phục dễ thương và hào nhoáng thường có phần phổ biến hơn những trang phục gợi cảm hoặc kín đáo.[138] Nguồn cảm hứng chính bao gồm thời trang Victoria dành cho trẻ em gái – tiêu biểu là Alice từ Alice's Adventures in Wonderland – nhân vật thường được nhắc đến trong manga, tạp chí, các thương hiệu Nhật Bản cũng như những bộ trang phục múa ba lê (đặc biệt là tutu).[139]

Văn hóa

Tiếp thị và phản hồi của độc giả

Manga ở Nhật Bản được đăng nhiều kỳ trên tạp chí manga, rồi được xuất bản thành sách và tankōbon (tuyển tập). Để khuyến khích độc giả quay lại, các tạp chí sẽ cố gắng tạo dựng với độc giả của họ cảm giác thân thuộc. Điều này đặc biệt đúng và quan trọng đối với tạp chí hướng đến đối tượng độc giả trẻ tuổi từ mười tuổi trở xuống (gọi là imōto (, imōto? "em gái")). Các tạp chí cố gắng thu hút độc giả trẻ bằng cách xuất bản nội dung liên quan đến anime, trò chơi video và đồ chơi bên cạnh trang nội dung manga.[140] Những sản phẩm đi kèm bổ sung thường là sản phẩm mới lạ nhưng có giá thành rẻ như nhãn dán, áp phích hay như bút có hình trang trí nhân vật manga dùng để thu hút độc giả. Các sản phẩm đi kèm này có trong túi nhựa đính kèm với chính tạp chí.[141] Thi thoảng, những mặt hàng độc lạ lớn hơn được cung cấp theo phương thức đặt hàng qua thư để đổi lấy phiếu giảm giá mà độc giả có thể cắt ra khỏi tạp chí.[142]

Đối với cả độc giả trẻ tuổi là imōto và độc giả lớn tuổi hơn chút (gọi là onēsan (, onēsan? "chị gái")), họ mời gửi ý kiến về những bộ manga hiện tại đang xuất bản thông qua thư và các cuộc thăm dò.[143] Thông thường, một độc giả ngẫu nhiên sẽ nhận giải thưởng của nhà xuất bản cho câu trả lời của mình ở cuộc thăm dò đó. Các nhà xuất bản sẽ sử dụng thông tin thu thập được từ những cuộc thăm dò này để từ đó có những đính hướng trong việc thay đổi cốt truyện, làm nổi bật một nhân vật phụ hoặc kết thúc bộ truyện không được ưa chuộng theo kết quả khảo sát. Những cuộc thăm dò này cũng được sử dụng để xác định bộ manga nào sẽ được chuyển thể thành các tác phẩm phát sinh chẳng hạn như anime hay trò chơi điện tử.[143]

Ngoài trả lời khảo sát, các nhà xuất bản cũng sử dụng thư của độc giả như một phương tiện để đánh giá ý kiến của độc giả và phát triển ý thức cộng đồng. Những lá thư này sẽ được gửi đến nhà xuất bản, rồi gửi thẳng đến chính tác giả.[144] Nội dung của những lá thư này bao gồm câu hỏi dành cho tác giả, giai thoại về cuộc sống hàng ngày của họ và công việc vẽ truyện tranh. Một số lá thư trong số đó có thể được đăng trên tạp chí.[145] Những buổi gặp gỡ giữa độc giả và tác giả cũng diễn ra thường xuyên. Các nhà xuất bản có thể tổ chức những buổi gặp mặt này, họ là những người chọn một nhóm độc giả để đưa đến văn phòng của mình trong chuyến đi tham quan trúng thưởng. Trải nghiệm này sẽ tương tự như một chuyến trải nghiệm thực tế do trường học tổ chức. Trong cả hai trường hợp, những chuyến tham quan này đều củng cố mối quan hệ giữa độc giả và nhà xuất bản và đồng thời cung cấp cho nhà xuất bản những hiểu biết sâu sắc về thị hiếu độc giả của họ.[144]

Hệ thống phát triển tài năng độc giả

Các nhà xuất bản manga thường tìm kiếm tác giả mới thông qua chính độc giả - họ được khuyến khích tích cực gửi truyện và nhận phản hồi từ biên tập viên của tạp chí.[39] Hệ thống phát triển tài năng này không chỉ dành riêng cho shōjo manga mà thực tế bắt nguồn từ tạp chí dành cho nữ giới trước chiến tranh, nơi độc giả nữ được mời gửi tiểu thuyết và truyện ngắn.[146] Tạp chí Imōto ngày nay phát triển hệ thống này ngay từ khi độc giả còn nhỏ, với mục tiêu hướng đến độc giả nhỏ tuổi sau này trưởng thành và sẽ xuất bản manga trên những tạp chí mà họ đã đọc hồi nhỏ. Trong khi tạp chí onēsan thường có độc giả và mangaka ở độ tuổi tương đương.[71] Bằng việc phát triển một hệ thống mà các tác giả manga trong một tạp chí trước đây là độc giả, khoảng cách giữa hai bên được thu hẹp và thúc đẩy ý thức cộng đồng.[147]

Xem thêm

  • Manga
  • Lịch sử manga
  • Ma pháp thiếu nữ: một thể loại con của shōjo manga
  • Shōnen manga: manga dành cho các nam thiếu niên
  • Seinen manga: manga dành cho nam giới trưởng thành
  • Josei manga: manga dành cho phụ nữ trưởng thành
  • Yaoi: các câu chuyện tình yêu, tình dục đồng tính nam dành cho mọi độc giả
  • Sunjung manhwa: phiên bản Hàn Quốc của shōjo manga
  • Yuri (thể loại): các câu chuyện tình yêu, tình dục đồng tính nữ dành cho độc giả nữ

Tham khảo

  1. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 6.
  2. ^ Prough 2011, tr. 7–8.
  3. ^ Prough 2011, tr. 8.
  4. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 7.
  5. ^ Shamoon 2012, tr. 3.
  6. ^ a b Thorn 2001.
  7. ^ Prough 2011, tr. 10.
  8. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 357.
  9. ^ Prough 2011, tr. 11.
  10. ^ Dollase 2019, tr. 19.
  11. ^ a b c Prough 2011, tr. 2.
  12. ^ Fraser & Monden 2017, tr. 546.
  13. ^ Shamoon 2012, tr. 29.
  14. ^ a b c Shamoon 2012, tr. 19.
  15. ^ Toku 2015, tr. 25–26.
  16. ^ a b Shamoon 2012, tr. 58.
  17. ^ Dollase 2019, tr. 31.
  18. ^ Shamoon 2012, tr. 70.
  19. ^ Brient 2010, tr. 12–13.
  20. ^ a b Ogi và đồng nghiệp 2019, tr. 207.
  21. ^ a b c d e Ogi và đồng nghiệp 2019, tr. 208.
  22. ^ a b c Masuda 2020, tr. 165.
  23. ^ Ogi và đồng nghiệp 2019, tr. 201.
  24. ^ a b Ogi và đồng nghiệp 2019, tr. 209.
  25. ^ Brient 2010, tr. 16–17.
  26. ^ a b c Prough 2011, tr. 30.
  27. ^ Shamoon 2012, tr. 56.
  28. ^ a b Prough 2011, tr. 32.
  29. ^ a b Bouissou 2014, tr. 69–70.
  30. ^ Koyama-Richard 2007, tr. 133.
  31. ^ Dollase 2010, tr. 145.
  32. ^ a b c Brient 2010, tr. 17.
  33. ^ a b Brient 2010, tr. 6.
  34. ^ a b c Danziger-Russell 2012, tr. 140.
  35. ^ Meiji University 2020.
  36. ^ Shamoon 2012, tr. 97.
  37. ^ Fujimoto 2012, tr. 47.
  38. ^ Fasulo 2021, tr. 14.
  39. ^ a b Toku 2015, tr. 26.
  40. ^ Pinon & Lefebvre 2015, tr. 22.
  41. ^ Poupée 2010, tr. 195.
  42. ^ a b Fasulo 2021, tr. 23.
  43. ^ Koyama-Richard 2007, tr. 139.
  44. ^ Thorn 2001, tr. 3.
  45. ^ a b Brient 2010, tr. 24.
  46. ^ a b Prough 2011, tr. 47.
  47. ^ Poupée 2010, tr. 191–192.
  48. ^ a b c Shamoon 2012, tr. 89.
  49. ^ Prough 2011, tr. 38.
  50. ^ Dollase 2010, tr. 193–194.
  51. ^ Thorn 2001, tr. 4.
  52. ^ Dollase 2010, tr. 194.
  53. ^ a b c d Brient 2010, tr. 25.
  54. ^ Dollase 2010, tr. 61–62.
  55. ^ Poupée 2010, tr. 195–196..
  56. ^ a b c Buckley 2002, tr. 328.
  57. ^ a b Shamoon 2012, tr. 100.
  58. ^ Prough 2011, tr. 97.
  59. ^ Pinon & Lefebvre 2015, tr. 66.
  60. ^ Takeuchi 2010, tr. 82.
  61. ^ Dollase 2010, tr. 236.
  62. ^ Shamoon 2012, tr. 104–105.
  63. ^ Fraser & Monden 2017, tr. 551.
  64. ^ a b Prough 2011, tr. 51.
  65. ^ Brient 2010, tr. 26.
  66. ^ Pinon & Lefebvre 2015, tr. 60.
  67. ^ Brient 2010, tr. 81.
  68. ^ a b Toku 2015, tr. 169.
  69. ^ a b Prough 2011, tr. 50.
  70. ^ Takeuchi 2010, tr. 83.
  71. ^ a b Toku 2015, tr. 27.
  72. ^ Takeuchi 2010, tr. 83–84.
  73. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 359–360.
  74. ^ Ogi 2003, tr. 781.
  75. ^ Fujimoto 2008, tr. 12.
  76. ^ Prough 2011, tr. 52.
  77. ^ Prough 2011, tr. 54.
  78. ^ Prough 2011, tr. 55.
  79. ^ Fasulo 2021, tr. 22.
  80. ^ Fasulo 2021, tr. 54.
  81. ^ Fasulo 2021, tr. 74.
  82. ^ a b Brient 2010, tr. 85.
  83. ^ Brient 2010, tr. 139.
  84. ^ Brient 2010, tr. 131-132.
  85. ^ Brient 2010, tr. 134-135.
  86. ^ Brient 2010, tr. 134.
  87. ^ Brient 2010, tr. 137.
  88. ^ Pinon & Lefebvre 2015, tr. 124.
  89. ^ a b Brient 2010, tr. 142-143.
  90. ^ Brient 2010, tr. 141.
  91. ^ Alverson 2021.
  92. ^ Prough 2011, tr. 48-49.
  93. ^ a b Takahashi 2008, tr. 115.
  94. ^ Dollase 2019, tr. 34.
  95. ^ Shamoon 2012, tr. 79.
  96. ^ Toku 2015, tr. 24–25.
  97. ^ Takahashi 2008, tr. 122.
  98. ^ Shamoon 2012, tr. 84.
  99. ^ Fujimoto 2012, tr. 24.
  100. ^ Brient 2010, tr. 21.
  101. ^ Prough 2011, tr. 48–49.
  102. ^ a b Shamoon 2012, tr. 99.
  103. ^ a b c Natsume, Holt & Teppei 2020, tr. 68–69.
  104. ^ a b Prough 2011, tr. 49.
  105. ^ Natsume, Holt & Teppei 2020, tr. 71.
  106. ^ Shamoon 2012, tr. 82.
  107. ^ a b Fujimoto 2012, tr. 49.
  108. ^ Toku 2015, tr. 25.
  109. ^ Fujimoto 2012, tr. 52.
  110. ^ a b c Shamoon 2012, tr. 87.
  111. ^ Brient 2010, tr. 29.
  112. ^ a b Prough 2011, tr. 73.
  113. ^ a b Fujimoto 1991, tr. 53–54.
  114. ^ Shamoon 2012, tr. 109.
  115. ^ Shamoon 2012, tr. 6–8.
  116. ^ Iwashita 2022.
  117. ^ Ogi và đồng nghiệp 2019, tr. 221.
  118. ^ Prough 2011, tr. 45–46.
  119. ^ McLelland 2010, tr. 82.
  120. ^ Schodt 1983, tr. 100–101.
  121. ^ Ueno 1989, tr. 47.
  122. ^ Takemiya 1993, tr. 82–83.
  123. ^ McLelland 2006.
  124. ^ Hashimoto 2007, tr. 91.
  125. ^ Friedman 2014, tr. 143–147.
  126. ^ Maser 2013, tr. 46.
  127. ^ Fujimoto 2014, tr. 25.
  128. ^ Fujimoto 2014, tr. 34.
  129. ^ Dollase 2010, tr. 60.
  130. ^ Dollase 2010, tr. 59.
  131. ^ Dollase 2010, tr. 62–66.
  132. ^ Dollase 2010, tr. 67–70.
  133. ^ Fasulo 2021, tr. 76.
  134. ^ Fasulo 2021, tr. 78–79.
  135. ^ Fasulo 2021, tr. 78–81.
  136. ^ a b Fraser & Monden 2017, tr. 553.
  137. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 209–210.
  138. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 211.
  139. ^ Berndt, Nagaike & Ogi 2019, tr. 216.
  140. ^ Prough 2011, tr. 60.
  141. ^ Prough 2011, tr. 66.
  142. ^ Prough 2011, tr. 66–67.
  143. ^ a b Prough 2011, tr. 61.
  144. ^ a b Prough 2011, tr. 74–75.
  145. ^ Prough 2011, tr. 76–79.
  146. ^ Prough 2011, tr. 82.
  147. ^ Prough 2011, tr. 87.

Thông tin thư mục

  • Berndt, Jaqueline; Nagaike, Kazumi; Ogi, Fusami biên tập (2019). Shōjo Across Media: Exploring "Girl" Practices in Contemporary Japan [Shōjo trên khắp các phương tiện truyền thông: Khám phá phong tục "con gái" ở Nhật Bản đương đại]. Palgrave Macmillan. ISBN 978-3030014841.
  • Brient, Hervé biên tập (2010). Le manga au féminin: Articles, chroniques, entretiens et mangas [Manga dành cho phụ nữ: Bài viết, chuyên mục, phỏng vấn và truyện tranh]. Éditions H. ISBN 978-2-9531781-4-2.
  • Bouissou, Jean-Marie (2014). Manga, Histoire et univers de la bande dessinée japonaise [Manga, Lịch sử và thế giới truyện tranh Nhật Bản] (bằng tiếng Pháp). Editions Philippe Piquier. ISBN 978-2-8097-0996-4.
  • Buckley, Sandra (2002). Encyclopedia of Contemporary Japanese Culture [Bách khoa toàn thư về văn hóa đương đại Nhật Bản]. Routledge. ISBN 0-415-14344-6.
  • Danziger-Russell, Jacqueline (2012). Girls and Their Comics: Finding a Female Voice in Comic Book Narrative [Các cô gái và truyện tranh của họ: Tìm kiếm giọng nữ trong truyện tranh]. Nhà xuất bản Scarecrow. ISBN 978-0-8108-8376-5.
  • Dollase, Hiromi Tsuchiya (2010). “Shōjo Spirits in Horror Manga” [Shōjo Tinh Linh Trong Manga Kinh Dị]. U.S.-Japan Women's Journal. Nhà xuất bản Đại họcHawai'i (38): 59–80.
  • Dollase, Hiromi Tsuchiya (2019). Age of Shojo: The Emergence, Evolution, and Power of Japanese Girls' Magazine Fiction [Age of Shojo: Sự xuất hiện, tiến hóa và sức mạnh của tiểu thuyết tạp chí dành cho thiếu nữ Nhật Bản]. Nhà xuất bản SUNY. ISBN 978-1438473918. JSTOR 42772010.
  • Fasulo, Fausto biên tập (2021). Le Manga D'Horreur [Manga kinh dị] (bằng tiếng Pháp). Custom Publishing France. ISBN 978-2-490308-29-3.
  • Fraser, Lucy; Monden, Masafumi (2017). “The Maiden Switch: New Possibilities for Understanding Japanese Shōjo Manga (Girls' Comics)” [The Maiden Switch: Những khả năng mới để hiểu Manga Shōjo Nhật Bản (Truyện tranh dành cho thiếu nữ)]. Asian Studies Review. 41 (4): 544–561. doi:10.1080/10357823.2017.1370436. S2CID 149014163.
  • Friedman, Erica (27 tháng 11 năm 2014). Shiina, Yukari biên dịch. “Yuri: A Genre Without Borders” [Yuri: Một thể loại không biên giới]. Eureka. Seidosha (Current State of Yuri Culture): 143–147. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2021.
  • Fujimoto, Yukari (1991). “A Life-Size Mirror : Women's Self-Representation in Girls' Comics” [Một tấm gương kích thước thật: Sự thể hiện bản thân của phụ nữ trong truyện tranh thiếu nữ]. Review of Japanese Culture and Society. 4: 53–57. JSTOR 42800110.
  • Fujimoto, Yukari (2008). “Japanese Contemporary Manga (Number 1): Shōjo (Girls Manga)” [Manga đương đại Nhật Bản (số 1): Shōjo (Girls Manga)] (PDF). Japanese Book News. The Japan Foundation. 56: 12. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2019.
  • Fujimoto, Yukari (2012). Thorn, Rachel biên dịch. “Takahashi Macoto: The Origin of Shōjo Manga Style” [Takahashi Macoto: Nguồn gốc của phong cách Shōjo Manga]. Mechademia. Nhà xuất bản Đại học Minnesota. 7: 24–55. doi:10.1353/mec.2012.0000. S2CID 121492914.
  • Fujimoto, Yukari (2014). Fraser, Lucy biên dịch. “Where Is My Place in the World? Early Shōjo Manga Portrayals of Lesbianism” [Vị trí của tôi ở đâu trên thế giới? Manga Shōjo thời kỳ đầu miêu tả chủ nghĩa đồng tính nữ]. Mechademia. Nhà xuất bản Đại học Minnesota. 9: 25–42. doi:10.1353/mec.2014.0007. S2CID 122076678.
  • Hashimoto, Miyuki (2007). “Visual Kei Otaku Identity—An Intercultural Analysis” [Visual Kei Otaku Identity—Một phân tích đa văn hóa] (PDF). Intercultural Communication Studies. XVI (1): 87–99. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2011.
  • Koyama-Richard, Brigitte (2007). Mille Ans de Manga [Manga Nghìn Năm] (bằng tiếng Pháp). Groupe Flammarion. ISBN 978-2-08-120063-0.
  • Maser, Verena (2013). Beautiful and Innocent: Female Same-Sex Intimacy in the Japanese Yuri Genre [Xinh đẹp và ngây thơ: Sự thân mật đồng tính nữ trong thể loại Yuri của Nhật Bản] (PDF) (Luận văn). University of Trier Department of Linguistics, Literature and Media Studies (PhD thesis). Lưu trữ 2022-11-19 tại Wayback Machine
  • Masuda, Nozomi (2020). “少女マンガ黎明期における作家と編集者:「少女マンガを語る会」記録より (Authors and Publishers Behind shōjo manga: Minutes from the Seminar on shōjo manga)” [Tác giả và nhà xuất bản manga Shōjo: Biên bản hội thảo về manga Shōjo]. 武庫川女子大学生活美学研究所紀要 (bằng tiếng Nhật). 30. doi:10.14993/00002074.
  • McLelland, Mark (2006). “Why are Japanese Girls' Comics full of Boys Bonking?” [Tại sao truyện tranh dành cho con gái Nhật Bản lại toàn là chuyện con trai chơi đùa?]. Refractory: A Journal of Entertainment Media. 10. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2008.
  • McLelland, Mark (2010). “The Beautiful Boy in Japanese Girl's Manga”. Trong Johnson-Woods, Toni (biên tập). Manga: An Anthology of Global and Cultural Perspectives [Manga: Tuyển tập các quan điểm toàn cầu và văn hóa]. Continuum International Publishing Group. ISBN 978-0-8264-2937-7.
  • Natsume, Fusanosuke; Holt, Jon; Teppei, Fukuda (2020). “Panel Configurations in Shōjo Manga” [Nội dung nền tảng trong Shōjo Manga]. US-Japan Women's Journal. 58: 58–74. doi:10.1353/jwj.2020.0005. S2CID 234772253.
  • Ogi, Fusami (2003). “Female Subjectivity and Shoujo (Girls) Manga (Japanese Comics): Shoujo in Ladies' Comics and Young Ladies' Comics” [Tính chủ quan của phụ nữ và Manga Shoujo (Girls) (Truyện tranh Nhật Bản): Shoujo trong truyện tranh dành cho phụ nữ và truyện tranh dành cho thiếu nữ] (PDF). The Journal of Popular Culture. Wiley-Blackwell. 36 (4): 780–803. doi:10.1111/1540-5931.00045. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2019.
  • Ogi, Fusami; Suter, Rebecca; Nagaike, Kazumi; Lent, John biên tập (2019). Women's Manga in Asia and Beyond: Uniting Different Cultures and Identities [Manga nữ ở châu Á và xa hơn: Hợp nhất các nền văn hóa và bản sắc khác nhau]. Palgrave Macmillan. ISBN 978-3-319-97229-9.
  • Pinon, Matthieu; Lefebvre, Laurent (2015). Histoire(s) du manga moderne: 1952–2012 [(Các) lịch sử manga hiện đại: 1952–2012] (bằng tiếng Pháp). Ynnis. ISBN 979-10-93376-22-6.
  • Poupée, Karen (2010). Histoire du Manga [Lịch sử Manga] (bằng tiếng Pháp). Editions Tallandier. ISBN 979-10-210-0216-6.
  • Prough, Jennifer (2011). Straight from the Heart: Gender, Intimacy, and the Cultural Production of Shōjo Manga [Thẳng thắn từ trái tim: Giới tính, sự thân mật và quá trình sản xuất mang tính văn hóa của Shōjo Manga]. Nhà xuất bản Đại học Hawaiʻi. ISBN 978-0-8248-3457-9.
  • Schodt, Frederik L. (1983). Manga! Manga! The World of Japanese Comics [Truyện! Truyện! Thế giới truyện tranh Nhật Bản]. Kodansha International. ISBN 0-87011-752-1.
  • Shamoon, Deborah (2012). Passionate Friendship: The Aesthetics of Girl's Culture in Japan [Tình bạn đam mê: Tính thẩm mỹ trong văn hóa con gái ở Nhật Bản]. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. ISBN 978-0-82483-542-2.
  • Takahashi, Mizuki (2008). “Opening the Closed World of Shōjo Manga”. Japanese Visual Culture: Explorations in the World of Manga and Anime [Văn hóa thị giác Nhật Bản: Khám phá thế giới Manga và Anime]. ME Sharpe. ISBN 978-0-7656-1601-2.
  • Takeuchi, Kayo (tháng 10 năm 2010). “The Genealogy of Japanese Shōjo Manga (Girls' Comics) Studies [Phả hệ của nghiên cứu Shōjo Manga (Truyện tranh dành cho thiếu nữ) Nhật Bản]”. U.S.-Japan Women's Journal. Tập đoàn Giáo dục Đại học Josai, Nhà xuất bản Đại học Hawai'i (38): 81–112. JSTOR 42772011.
  • Thorn, Rachel (2001). “Shôjo Manga – Something for the Girls” [Một cái gì đó cho các cô gái]. The Japan Quarterly. Tokyo: Asahi Shimbun. 48 (3). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2007.
  • Toku, Masami (2015). International Perspectives on Shojo and Shojo Manga The Influence of Girl Culture [Quan điểm quốc tế về Shojo và Shojo Manga Ảnh hưởng của văn hóa con gái]. Routledge. ISBN 9781138549036.
  • Takemiya, Keiko (1993). “"Josei wa gei ga suki!?" (Women Like Gays!?)” [Phụ nữ thích đồng tính nam!?]. June. Bungei shunjū: 82–83.
  • Meiji University (2020). “少女マンガはどこからきたの?web展 ~ジャンルの成立期に関する証言より~” [Shōjo manga đến từ đâu? Những bằng chứng về sự hình thành của thể loại]. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  • Ueno, Chizuko (1989). “Jendaaresu waarudo no "ai" no jikken" ("Experimenting with "love" in a Genderless World")” [Thử nghiệm "tình yêu" trong một thế giới phi giới tính]. Kikan Toshi II (Quarterly City II). Tokyo: Kawade Shobō Shinsha. ISBN 4-309-90222-7.
  • Iwashita, Housei (2022). “Nguồn gốc của Shōjo Manga”. Google Arts & Culture. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2024. Truy cập 28 tháng 4 năm 2022.
  • Alverson, Brigid (10 tháng 3 năm 2021). “Shoujo Manga: Let's Hear It for the Girls” [Manga Shoujo: Hãy nghe nó cho các cô gái]. School Library Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.

Liên kết ngoài

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • NDL: 01147290
Tìm hiểu thêm tại các
Dự án liên quan Wikipedia
  • Tư liệu đa phương tiện
    trên Commons
  • Định nghĩa
    trên Wiktionary
  • Dữ liệu
    trên Wikidata

Bài viết tốt "Shōjo manga" là một bài viết tốt của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 9 tháng 8 năm 2024 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.